SKKN Giải pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi ở trường mầm non

Qua thực tế giảng dạy trên lớp mẫu giáo 3-4 tuổi do tôi phụ trách, tôi nhận thấy rằng: Đa số trẻ lớp tôi chưa có kỹ năng tự phục vụ bản thân; trẻ chưa biết lấy và cất đồ dùng cá nhân của mình, chưa tự rửa tay; lau mặt, tự đi dép, tự ăn, tự lấy và cất gối....đồng thời trẻ cũng chưa có kỹ năng giữ gìn vệ sinh như chưa biết đi vệ sinh đúng nơi quy định; chưa có thói quen xả nước sau khi đi vệ sinh, hay rửa tay bằng xa phòng khi tay bẩn, chưa có ý thức nhặt rác bỏ vào thùng rác, kỹ năng hỗ trợ người khác và khả năng hợp tác còn hạn chế. Nếu chúng ta không trang bị cho trẻ những kỹ năng tự phục vụ bản thân thì trẻ sẽ không thể chủ động và tự lập trong cuộc sống hiện tại cũng như sau này. Từ những lý do trên bản thân tôi nhận thấy việc giáo dục tính tự lập cho trẻ là hết sức quan trọng và cần thiết. Đó cũng là lí do mà tôi lựa chọn, nghiên cứu đề tài:“Giải pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi ở trường mầm non”.

doc 11 trang lethu 13/10/2024 753
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giải pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi ở trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Giải pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi ở trường mầm non

SKKN Giải pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi ở trường mầm non
 thực hiện các nội dung giáo dục một cách nhạy bén, linh hoạt, không trùng lặp, 
không gây quá tải, để trẻ thực hành và trải nghiệm một cách thoải mái.
 Mặt khác giúp trẻ mẫu giáo 3-4 có một số kỹ năng tự lập như kỹ năng tự 
phục vụ bản thân, kỹ năng giữ gìn vệ sinh, kỹ năng hỗ trợ người khác.
 Trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia tích cực vào các hoạt động, phát triển khả năng 
tư duy, khả năng chủ động trong mọi hoạt động.
 Giáo viên có thêm nhiều kinh nghiệm về phương pháp giáo dục tính tự lập 
cho trẻ. Biết lựa chọn nội dung dạy, các hoạt động trong lớp hợp lý, đầy đủ và 
logic. Hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của từng trẻ trong lớp. 
 Ngoài ra, kết hợp cùng phụ huynh tham gia nhiều ý kiến đóng góp, chia sẻ 
kinh nghiệm để phụ huynh hiểu được ý nghĩa của việc giáo dục tính tự lập cho trẻ.
 Đây là điều kiện thuận lợi để bản thân tôi nghiên cứu và hoàn thành đề tài, 
mang lại kết quả thiết thực qua một năm thực hiện.
 * Phạm vi áp dụng đề tài:
 Đề tài được thực hiện trong năm học 2022-2023, trong phạm vi của đề tài, 
bản thân chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề“Giải pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ 
mẫu giáo 3- 4 tuổi ở trường mầm non”nơi tôi đang công tác và thực hiện có hiệu 
quả cao. 
 Vì thế, đề tài này có khả năng áp dụng rộng rãi đối với các trường mầm non 
trong toàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình nói riêng và có thể áp dụng rộng rải 
đối với các trường mầm non trên toàn quốc nói chung. Hy vọng rằng, từ giải pháp 
tôi đưa ra sẽ giúp cho hoạt động học trong trường mầm non đạt kết quả tốt hơn. 
 2. PHẦN NỘI DUNG:
 2.1 Thực trạng của vấn đề mà đề tài cần giải quyết
 Năm học 2022- 2023, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp mẫu 
giáo 3-4 tuổi với tổng số là 24 cháu, trong quá trình thực hiện đề tài, tôi gặp một số 
thuận lợi và khó khăn như sau:
 * Thuận lợi:
 - Được sự chỉ đạo sâu sát về chuyên môn của Ban giám hiệu nhà trường. Lớp 
tôi được đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài liệu dạy học.
 - Bản thân và giáo viên trong lớp nhận thức được tầm quan trọng của việc 
giáo dục tính tự lập cho trẻ. Luôn suy nghĩ tìm tòi, gây hứng thú để trẻ tích cực 
tham gia các hoạt động rèn tính tự lập.
 - Môi trường lớp học rộng rãi, thoáng mát, có góc kỹ năng riêng dành cho trẻ 
trải nghiệm. 
 - Phụ huynh luôn phối hợp với giáo viên trong lớp về chăm sóc nuôi dưỡng, 
giáo dục trẻ, đưa trẻ đi học chuyên cần đạt tỷ lệ cao.
 * Khó khăn:
 2 + Hoạt động chơi: Tôi giáo dục trẻ biết chơi cùng nhau, biết đoàn kết, chia
 sẽ, không tranh dành đồ chơi, giúp nhau hoàn thành công việc được giao, biết thu 
dọn đồ dùng, đồ chơi sau khi hoạt động hay sau khi chơi xong như: trẻ chơi ở góc 
xây dựng, tôi luôn gợi mở cho trẻ biết tự nhận vai và biết công việc của mình, của 
từng thành viên trong nhóm cùng phối hợp giúp nhau hoàn thành công việc. Sau 
khi chơi xong tôi hướng dẫn để trẻ biết thu dọn đồ dùng đồ chơi, từ đó hình thành 
cho trẻ thói quen ngăn nắp, gọn gàng, sạch sẽ. Trong khi chơi, tôi giáo dục cho trẻ 
kỹ năng chơi đoàn kết không tranh giành đồ chơi của bạn, chơi nhẹ nhàng không 
gây ra tiếng ồn lớn. Còn ở góc phân vai các bạn tự thỏa thuận vai chơi cùng nhau 
thể hiện vai chơi, cùng nhau lấy và cất đồ chơi đúng nơi quy định.
 + Các giờ hoạt động khác (ăn, ngủ, vệ sinh): Tôi chú ý giáo dục trẻ kỹ năng 
tự phục vụ như rửa tay, lau mặt, tự cất, lấy bát, thìa, gối....tự ăn, uống, tự cởi quần 
khi đi vệ sinh, đi vệ sinh đúng nơi quy định. Khi trẻ mới đến trường chưa quen với 
các bước rửa tay thì tôi hướng dẫn và cùng thực hiện với trẻ (kỹ năng rửa tay với xà 
phòng). Sau đó, tôi khuyến khích, động viên cho trẻ tự thực hiện liên tục hằng ngày 
vào giờ vệ sinh, nhờ vậy mà trẻ lớp tôi đã có kỹ năng rửa tay khá thành thạo. 
 Hoặc trong giờ ngủ, tôi luôn cho trẻ tự giác lấy gối, chăn khi đi ngủ và cất 
gối đúng nơi quy định khi ngủ dậy. Mỗi một việc làm tuy nhỏ nhưng với sự kiên trì 
hàng ngày của cô giáo thì giúp trẻ có thói quen tự phục vụ cho bản thân tốt.
 - Dạy trẻ kỹ năng giữ gìn vệ sinh 
 Giữ vệ sinh sạch là một trong những kỹ năng quan trọng đầu tiên trẻ nên 
được dạy từ khi còn bé. Dạy trẻ kỹ năng giữ gìn vệ sinh chung và vệ sinh cá nhân 
để giữ các con luôn sạch sẽ, tránh sự xâm nhập của vi khuẩn, ảnh hưởng tới sức 
khỏe. Đối với trẻ lớp tôi, tôi hướng dẫn trẻ có thể tự làm các hoạt động vệ sinh cá 
nhân cơ bản như đánh răng, lau mặt hoặc đi vệ sinh, xả nước sau khi đi vệ sinh, bỏ 
rác đúng nơi quy định. Tôi luôn kiên nhẫn và hướng dẫn trẻ từ từ thực hiện các 
hoạt động này, không làm hộ để tránh trẻ ỷ lại, phụ thuộc cô.
 Ví dụ:
 + Hoạt động ngoài trời: Đây là cơ hội để trẻ được trải nghiệm, được vui chơi 
thỏa thích theo hứng thú của trẻ. Tuy nhiên, trong quá trình chơi tôi luôn định 
hướng giáo dục để trẻ có một số kỹ năng biết bảo vệ môi trường như: Nhặt lá rụng 
sân trường, nhặt rác bỏ vào thùng rác, nhổ cỏ, tưới nước cho cây, trong quá trình 
trẻ thực hiện, tôi quan sát thấy trẻ nào còn lúng túng thì tôi lại gần hướng dẫn và 
cùng làm với trẻ, trò chuyện với trẻ về mục đích, ý nghĩa và công việc trẻ đang 
làm... từ đó trẻ hiểu và yêu quý cây xanh, yêu thiên nhiên, biết giữ gìn bảo vệ môi 
trường xanh-sạch-đẹp hơnkhi trẻ làm tốt công việc được giao tôi tuyên dương, 
khen ngợi, trẻ cảm thấy hứng thú, tự tin hơn và từ đó thích tham gia vào các hoạt 
động tập thể của lớp.
 4 thấy có nhu cầu.
 - Kỹ năng hỗ trợ người khác: Trẻ lấy, cất đồ dùng học tập, chuẩn bị bàn ăn, 
giường ngủ cùng cô, lấy ly nước uống khi được nhờ, xách phụ đồ, tưới chăm sóc 
cây...
 Việc xác định được những kỹ năng trên đã giúp tôi định hướng được nhiệm 
vụ của mình trong công tác chăm sóc trẻ nói chung và việc thực hiện đề tài nghiên 
cứu nói riêng. Sau khi xác định được kỹ năng cơ bản tôi lập kế hoạch giáo dục kỹ 
năng tự lập cho trẻ theo: Kế hoạch năm, kế hoạch tháng, kế hoạch tuần và kế hoạch 
ngày. Trong quá trình thực hiện, tôi chú ý lựa chọn, xây dựng, sắp xếp các kỹ năng 
cần giáo dục tính tự giác cho trẻ theo nguyên tắc từ dễ đến khó và phù hợp với khả 
năng của trẻ, phù hợp với chủ đề.
 Khi xây dựng kế hoạch dạy học, tôi đã lựa chọn lồng ghép các nội dung giáo 
dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. 
 Ví dụ: 
 - Chủ đề bản thân: Tôi chọn nội dung tự phục vụ và chăm sóc bản thân như: 
Biết tự xúc cơm, tự rót nước, tự cất đồ dùng cá nhân, tự mặc giày, dép, biết rửa tay, 
lau mặt, biết cách đeo khẩu trang đúng cách....
 - Chủ đề gia đình: Tôi chọn kỹ năng giúp đỡ người khác như: Biết phối hợp 
với bạn trong khi chơi, không tranh dành đồ chơi của bạn, đoàn kết chia sẽ cùng 
bạn trong khi chơi, biết cảm ơn khi được giúp đỡ và biết xin lỗi khi mắc lỗi, biết 
giúp đỡ cô, giúp đỡ bạn, biết dọn dẹp đồ dùng, đồ chơi.....
 - Các chủ đề khác, tôi lồng ghép giáo dục kỹ năng giữ gìn vệ sinh....biết bảo 
vệ môi trường, không vứt rác bừa bãi, không ngắt lá bẻ cành...
 Nhờ việc lập kế hoạch và xác định nội dung cụ thể đưa vào chương trình 
giáo dục mà tôi không còn lúng túng trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. 
Không còn bị động khi đã có nội dung cụ thể rõ ràng. Tôi đã giúp trẻ hiểu được ý 
nghĩa của hành động, của công việc đó như thế nào, biết được việc nào nên làm và 
việc nào không nên làm để từ đó giúp trẻ có ý thức trong cuộc sống hàng ngày.
 2.2.3 Luôn tập thói quen và cho trẻ thời gian để hoàn thành công việc:
 Trước kia khi chưa thực hiện biện pháp, tôi thường hay mất kiên nhẫn luôn 
không dành nhiều thời gian cho trẻ để trẻ tự hoàn thành công việc mà thường giúp 
trẻ khi thấy trẻ chưa làm đúng yêu cầu như: “Sao con làm chậm vậy?” hay : “ Cô 
nói mãi mà con vẫn không hiểu ư?”khi thấy tôi như vậy trẻ rất buồn vì chưa 
hoàn thành được công việc của mình bị cô giáo nhắc nhở, một số trẻ thường ỉ lại 
vào cô giáo và không muốn tự làm hay làm rất chậm để chờ sự giúp đở của cô và 
trẻ rất ít hứng thú khi tham gia vào vào bất cứ việc gì của lớptừ đó tôi hiểu ra 
rằng với trẻ nhỏ không nên nóng vội, không la mắng trẻ, không làm giúp những 
việc vừa sức đối với trẻ, khi hướng dẫn trẻ làm việc gì tôi hướng dẫn tỉ mỉ, cẩn 
thận, thấy trẻ làm được thao tác này rồi tôi mới chuyển sang hướng dẫn thao tác 
 6 Tôi thường xuyên quan sát động viên khen ngợi trẻ kịp thời mỗi khi trẻ 
làm tốt công việc được giao, nêu gương trẻ trước cả lớp cho các bạn học tập, trẻ rất 
hứng khởi và luôn cố gắng phấn đấu để được cô khen, tính tự lập của trẻ từ đó cũng 
ngày càng phát triển tốt hơn.
 Ví dụ: Trong giờ ăn cơm bạn Thủy Tiên ăn cơm xong trước được tôi khen: 
Bạn Thủy Tiên giỏi quá bạn tự xúc ăn hết xuất rồi cuối tuần cô sẽ thưởng bé ngoan 
cho bạn Thủy Tiên nhé. Vậy là các bạn khác trong lớp cũng cố gắng tự xúc ăn 
nhanh hết xuất để được cô giáo khen giống bạnHoặc khi ở giờ học: Dạy trẻ kĩ 
năng tự mặc và cởi áo khoác bạn Quỳnh Nga thực hiện rất tốt nên được cô giáo 
tuyên dương trước lớpcháu tỏ ra rất vui vẻ và ham học hỏi hơn nữa.
 Có thể đôi khi trẻ chưa làm tốt nhiệm vụ được như mong đợi nhưng thay vì 
trách mắng trẻ tôi thường xuyên động viên khuyến khích trẻ để trẻ thêm tự tin, tự 
lập và làm tốt hơn vào lần sau.
 2.2.5 Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh giáo dục tính tự lập cho trẻ
 Đối với trẻ 3-4 tuổi nói riêng và trẻ mầm non nói chung, thời gian trẻ ở 
trường nhiều hơn so với thời gian ở nhà. Những bài học trẻ được học ở trường giúp 
trẻ phát triển đúng yêu cầu ở độ tuổi. Tuy nhiên, để giáo dục trẻ ở trường đạt kết 
quả tốt nhất, tránh trường hợp cô giáo ở lớp thì giáo dục trẻ tính tự lập, còn về nhà 
cha mẹ lại luôn làm thay trẻ mọi việc, vì thế tôi thường xuyên trao đổi với phụ 
huynh trong những giờ đón, trả trẻ, trong các buổi họp phụ huynh, qua các góc 
tuyên truyền cũng như các nhóm zalo, facebook của lớp về mọi vấn đề có liên quan 
đến trẻ ở trường và đặc biệt là giáo dục tính tự lập cho trẻ. Bởi không phải phụ 
huynh nào cũng có nhận thức đúng đắn về vấn đề đó. 
 Tôi cũng tuyên truyền đến từng phụ huynh, trong những bữa cơm ở nhà để
trẻ tự xúc ăn và nhắc nhở trẻ ăn sạch sẽ, trên bàn ăn cần đặt một chiếc khăn ướt và 
một chiếc khăn ăn để trẻ có thể học theo người lớn tự vệ sinh cho sạch. Hướng dẫn 
trẻ tự đánh răng và rửa mặt trước khi đi ngủ, sau khi ngủ dậy để rèn nề nếp thói 
quen cho trẻ về vệ sinh cá nhân.
 Phối hợp với phụ huynh hướng dẫn trẻ biết tự cất đồ chơi, sắp xếp dồ dùng 
gọn gàng, không chê trách trẻ mà phải kiên trì và thường xuyên khích lệ, khen ngợi 
để trẻ hào hứng và tự lập hơn. Bắt đầu từ những việc đơn giản và tăng dần mức độ 
khó lên khi trẻ đã quen dần. Tập cho trẻ trong các hoạt động hằng ngày của mình 
như tự gấp quần áo của mình hay chỉ đơn giản là đem cất cốc nước mà trẻ vừa 
uống xong có thể giúp trẻ tự lập hơn. Mẹ cũng có thể cho trẻ làm “chân chạy vặt” 
mỗi khi làm bếp, vừa tăng cơ hội gần gũi giữa mẹ và trẻ vừa giúp bé tự lập hơn. 
 Với cách làm này tôi thấy rất hiệu quả trẻ thành thạo thêm nhiều kỹ năng. Cô 
nắm bắt được tình hình của trẻ, còn phụ huynh thì biết được con đã làm được gì. 
Thấy phụ huynh ai cũng hào hứng phấn khởi khi con mình biết được các kỹ năng 
tự phục vụ.
 8

File đính kèm:

  • docskkn_giai_phap_giao_duc_tinh_tu_lap_cho_tre_mau_giao_3_4_tuo.doc