SKKN Một số giải pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 3-4 tuổi dân tộc Bru-Vân Kiều tại Trường Mầm non Kim Thủy

Đối với trẻ mẫu giáo từ 3-4T đây là thời kỳ tâm sinh lý trẻ phát triển mạnh nhất. Song cơ thể trẻ non nớt, nhạy cảm, sức đề kháng yếu. Nếu chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục không chu đáo sẻ kìm hãm sự phát triển của trẻ, làm cho trẻ thường xuyên mắc các bệnh tật, ốm đau. Trẻ người dân tộc Bru-Vân Kiều khi mới đến trường mọi thứ đều xa lạ chưa quen cô, quen bạn, chưa hiểu được ngôn ngữ Tiếng Việt... chưa quen với chế độ sinh hoạt của lớp; tránh né bạn, không chấp nhận sự giúp đỡ của cô giáo, thậm chí còn la khóc, không ăn, không ngủ, không chịu tham gia vào mọi hoạt động của lớp nói chúng và giáo dục vệ sinh nói riêng. Mặt khác, trẻ 3-4 tuổi do không học từ nhà trẻ nên khả năng nghe, nói và hiểu Tiếng Việt còn hạn chế trẻ chỉ nói tiếng địa phương nên mọi yêu cầu của trẻ giáo viên cũng không hiểu và đáp ứng được, do đó trẻ chưa gần gũi, thân thiện với giáo viên và ngược lại mọi yêu cầu của giáo viên trẻ không hiểu, không thực hiện được.

doc 15 trang lethu 24/10/2024 381
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 3-4 tuổi dân tộc Bru-Vân Kiều tại Trường Mầm non Kim Thủy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 3-4 tuổi dân tộc Bru-Vân Kiều tại Trường Mầm non Kim Thủy

SKKN Một số giải pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 3-4 tuổi dân tộc Bru-Vân Kiều tại Trường Mầm non Kim Thủy
 Phần I. PHẦN MỞ ĐẦU
 1.1. Lý do chọn đề tài:
 Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước, là thế hệ tiếp bước cha anh để 
xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. 
 Lúc sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm các cháu Thiếu Niên, Nhi đồng. Bác 
mong muốn các cháu chăm ngoan, học giỏi nối tiếp truyền thông của ông cha xây 
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam giàu đẹp. Bác rất mực thương yêu trẻ em. Bác 
dành muôn vàn thình thương yêu đối với các em Bấc nói: "Sữa để em thơ lụa tặng 
già". 
 Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến thế hệ trẻ, đã dành 
cho trẻ em sự quan tâm đặc biệt, tạo mọi điều kiện cho trẻ được đến trường, được 
hưởng các quyền lợi về chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. 
 Như chúng ta đã biết nhân cách con người là kết quả tổng hòa của nhiều 
nhân tố, nhân cách con người được hình thành là nhờ một phần của giáo dục. 
 Giáo dục có vai trò quan trọng, thông qua giáo dục nhằm giúp con người 
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; chỉ có giáo dục mới hình 
thành đội ngũ lao động có trí thức, có năng lực, có sáng tạo, có phẩm chất chính 
trị, đạo đức cách mạng.
 Đối với lứa tuổi mầm non giáo dục có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp cho 
trẻ cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, phát triển cao về trí tuệ; là cơ 
sở đầu tiên để hình thành nhân cách con người mới, là tiền đề để chuẩn bị tâm thế 
sẵn sàng đi học. 
 Ngoài việc giáo dục trẻ phát triển thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mỹ, 
tình cảm xã hội thì công tác giáo dục vệ sinh được xem là nhiệm vụ quan trọng 
hàng đầu. Trẻ có khỏe mạnh thì mới ham học hỏi, tích cực, hứng thú tham gia các 
hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục; tiếp thu kiến thức, kỹ năng giáo dục 
nhờ đó phát triển nhận thức, trí tuệ, ngôn ngữ, tình cảm tốt và ngược lại nếu trẻ 
gầy gộc, chậm lớn, thường xuyên đau ốm, bệnh tật thì không tích cực tham gia các 
hoạt động chăm sóc, giáo dục điều đó đồng nghĩa với việc chậm phát triển về nhận 
thức, tư duy, ngôn ngữ, tình cảm xã hội.... 
 "Sức khỏe là vàng", nếu trẻ không được chăm sóc tốt thường xuyên đau ốm, 
bệnh tật thì không những ảnh hưởng đến kinh tế gia đình mà còn để lại gánh nặng 
cho xã hội.
 Giáo dục vệ sinh cá nhân đối với trẻ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, phải 
thực hiện thường xuyên, liên tục, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình- nhà trường và xã 
hội có như thể mới đem kết quả tốt. 
 2 là trẻ nhỏ. Nguyên nhân xảy ra là do công tác vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường 
không sạch sẽ. Để phòng chống các bệnh "Tay, chân, miệng" và dịch cúm Bộ Y tế 
đã khuyến cáo và tăng cường chỉ đạo thực hiện các biện pháp phòng chống dịch 
bệnh trong toàn xã hội trong đó đặc biệt chú ý ở bậc học Mầm non.
 Vì vậy, trường mầm non và đội ngũ giáo viên là người đóng vai trò quan 
trọng và quyết định chất lượng, hiệu quả công tác chăm sóc, giáo dục vệ sinh cá 
nhân cho trẻ.
 Làm thế nào để giáo dục vệ sinh cá nhân và hình thành nề nếp thói quen vệ 
sinh cho trẻ là vấn đề tôi luôn băn khoăn, trăn trở. 
 Nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết đó tôi đã suy nghĩ, tìm tòi 
“Một số giải pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 3- 4 tuổi người dân tộc Bru 
Vân Kiều" làm Sáng kiến kinh nghiệm trong năm học này. 
 Đề tài "Một số giải pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 3- 4 tuổi" chắc 
cũng có nhiều người nghiên cứu, tìm hiểu nhưng họ là người đang công tác tại các 
vùng thuận lợi, trong lớp chủ yếu trẻ người Kinh nên các nhiệm vụ, biện pháp thực 
hiện của họ không thể áp dụng phù hợp đối với đơn vị vùng có nhiều trẻ người 
đồng bào thiểu số. Vì vậy, năm học này, tôi đã mạnh dạn thực hiện đề tài này với 
mong muốn đóng góp được một số biện pháp hữu hiệu giúp chị em đồng nghiệp 
có thể vận dụng có hiệu quả tại vùng đồng bào dân tộc, vùng núi, vùng sâu, vùng 
xa.
* Điểm mới của đề tài là thực hiện một số giải pháp: 
Hướng dẫn cho trẻ nắm vững quy trình lau mặt, rửa tay;
Giáo dục trẻ vệ sinh thông qua các hoạt động trong ngày
Tổ chức cho trẻ làm một số công việc tự phục vụ;
Phối hợp với phụ huynh chăm sóc, giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ.
Đề tài nhằm giải quyết tình trạng hạn chế về chất lượng chăm sóc vệ sinh cho trẻ, 
góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
1.2. Phạm vi áp dụng đề tài, sáng kiến:
 Đề tài "Một số giải pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ 3- 4 tuổi người 
dân tộc Bru-Vân Kiều" có thể áp dụng cho giáo viên tại trường tôi đang công tác 
và có khả năng áp dụng trong các đơn vị thuộc vùng núi, vùng sâu, vùng xa, nơi 
biên giới và đây là đề tài thuộc lĩnh vực chăm sóc vệ sinh cho trẻ mẫu giáo 3-4 
tuổi. 
* Đề tài này được kết cấu theo những nội dung chính sau đây:
Phần I. Phần mở đầu:
Phần II. Nội dung
Phần III. Kết luận
 4 hoạt cho người dân ở vùng thuận lợi thì không khó nhưng đối với vùng núi, vùng 
đặc biệt khó khăn thì nguồn nước vô cùng khan hiếm. Hầu hết người dân ở đây sử 
dụng nước suối để phục vụ sinh hoạt hằng ngày nên hạn chế đến chất lượng cuộc 
sống và công tác vệ sinh cho trẻ. Dẫn đến ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ, sinh ra 
nhiều bệnh tật như: bệnh ngoài da, tiêu chảy, viêm đường hô hấp.... 
 Kinh tế của người dân còn nhiều thiếu thốn, chật vật, phong tục tập quán 
của người dân còn lạc hậu. Một số trẻ tiêm chủng không đầy đủ, đúng lịch, khám 
bệnh không đúng định kỳ, chữa bệnh không kịp thời. 
 Nhà ở của phụ huynh chưa xây dựng kiên cố, chủ yếu ở nhà sàn, công trình 
vệ sinh chưa có, các dụng cụ phục vụ sinh hoạt gia đình chưa đầy đủ, đồ dùng 
phục vụ vệ sinh chưa quan tâm đúng mức.
 Phụ huynh hầu như không mấy khi lau nhà, hướng dẫn trẻ đánh răng, chải 
đầu, soi gương, lau mặt, rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước; quần áo trẻ không 
được thay giặt thường xuyên; ít dành tiền để mua áo quần, dày dép cho con; đa số 
trẻ mặc đi mặc lại những bộ quần áo đã cũ hoặc do cô giáo mang từ miền xuôi 
mang lên. 
 Trình độ dân trí thấp, phụ huynh chưa hiểu rõ tầm quan trọng của việc học 
tập của con em mình; chưa có kiến thức về chăm sóc sức khỏe, nuôi dưỡng và giáo 
dục trẻ. Bố mẹ trẻ không mấy khi quan tâm tới mọi sinh hoạt thường ngày của con 
mình. 
 Đa số cháu đều thuộc con em dân tộc Vân Kiều nên ít có điều kiện chăm sóc 
vệ sinh chu đáo. Trẻ chưa có ý thức trong việc vệ sinh cá nhân cũng như vệ sinh 
môi trường. 
 Khả năng tiếp thu, ghi nhớ của trẻ hạn chế rất nhiều so với những cháu cùng 
tuổi dân tộc Kinh. 
 Đa số trẻ chưa nắm được thao tác, quy trình một số hoạt động vệ sinh cá 
nhân, chưa có ý thực đi vệ sinh chưa đúng nơi quy định; chưa biết là một số công 
việc tự phục vụ.
 Trẻ đến trường chưa được sạch sẽ, gọn gàng, ăn mặc chưa phù hợp theo 
mùa, mùa đông cháu mặc quần áo chưa được đủ ấm do đó ảnh hưởng rất nhiều 
đến sức khỏe, nhiều trẻ bị bệnh viêm đường hô hấp, sổ mũi; một số trẻ viêm 
đường hô hấp kéo dài hàng tháng vẫn không hết.
 Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng, thấp còi đang ở mức cao (37%).
 Cơ sở vật chất của nhà trường tuy có đủ phòng học, điện nước hơn các khu 
vực khác nhưng so với yêu cầu thì còn nhiều hạn chế: chưa có phòng vệ sinh khép 
kín, đủ bồn cầu và khu vệ sinh dành riêng cho bé trai, bé gái theo quy định;
 Nguồn nước không đủ phục vụ sinh hoạt của trẻ nhất là về mùa hè.
 6 Bước 1: Đầu tiên cô mở vòi nước nhẹ, úp 2 lòng bàn tay vào nhau và để 
dưới vòi nước chảy, sau đó cô xoa đều xà bông vào 2 lòng bàn tay, chà xát 2 lòng 
bàn tay vào nhau để tạo bọt. 
 Bước 2: Dùng ngón tay của bàn tay này cuốn và xoay lần lượt từng ngón 
tay của bàn tay kia và ngược lại.
 Bước 3: Dùng lòng bàn tay chà xát chéo lên mu bàn tay kia và ngược lại.
 Bước 4: Dùng đầu ngón tay của bàn tay này miết vào các kẽ giữa các ngón 
tay của bàn tay kia và ngược lại.
 Bước 5: Chụm năm đầu ngón tay của bàn tay này cọ vào lòng bàn tay kia 
bằng cách xoay đi xoay lại.
 Bước 6: Cô để tay dưới vòi nước xát nhẹ 2 lòng bàn tay vào nhau, rửa từ 
mu bàn tay đến các ngón tay và rửa cho sạch xà phòng. 
 Đối với trẻ ở lớp tôi đã hướng dẫn quy trình này như sau:
 Bước 1: Cô đặt 2 lòng bàn tay dưới vòi nước sau đó, lấy xà bông xoa đều 
rồi chà xát để tạo bọt.
 Bước 2: Cô dùng bàn tay này xoay lần lượt hết các ngón của bàn tay kia rồi 
đổi tay.
 Bước 3: Cô dùng bàn tay này chà sát chéo lên mu của bàn tay kia rồi đổi bên.
 Bước 4: Cô dùng các ngón của bàn tay này miết vào kẽ giữa các ngón của 
bàn tay kia rồi đổi tay.
 Bước 5: Chụm năm đầu ngón tay của bàn tay này xoay đi xoay lại vào lòng 
của bàn tay kia rồi đổi tay.
 Bước 6: Cô để tay dưới vòi nước rửa sạch xà phòng, rủa từ mu bàn tay đến 
lòng bàn tay và các ngón tay.
 * Quy trình lau mặt theo hướng dẫn của chương trình hiện qua 6 bước sau:
 Bước 1: Cô trải khăn vào lòng bàn tay, dùng ngón trỏ và ngón cái của bàn 
tay phải lau từng mắt một, lần lượt lau từ mép trên của mắt rồi đến mép dưới của 
mắt, lau từ hóc mắt đến đuôi mắt.
 Bước 2: Cô dịch khăn để lau mũi, lau từ trên mũi xuống 2 lỗ mũi rồi dịch 
khăn.
 Bước 3: Cô lau miệng, cô lau mép trên của miệng và mép dưới của miệng 
và gấp khăn.
 Bước 4: Đặt dọc khăn lên lòng bàn tay cô lau trán và má phải cô gấp khăn.
 Bước 5: Cô lau trán và má trái và gấp khăn.
 Bước 6: Cuối cùng cô lau cằm và cổ, bỏ khăn vào chậu.
 Ở lớp tôi đã hướng dẫn cho trẻ như sau:
 Bước 1: Cô trải khăn ở tay rồi dùng ngón trỏ, ngón cái lau từ mép trên rồi 
đến mép dưới của mắt, lau từ hóc mắt đến đuôi mắt rồi chuyển sang lau mắt khác.
 Bước 2: Cô dịch khăn để lau từ trên mũi xuống 2 lỗ mũi.
 8

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_giao_duc_ve_sinh_ca_nhan_cho_tre_3_4_t.doc